St. Vincent Liem Parish

Lời Quý Cha

  Apr 21st, 2018

TẠI SAO ĐỨNG KHI ĐỌC KINH “LẠY NỮ VƯƠNG THIÊN ĐÀNG” ?

Trong mùa Phục sinh này, khi đọc kinh “Lạy Nữ vương thiên đàng” thì mọi người đứng lên. Tại sao vậy?

Trước khi trả lời câu hỏi, thiết tưởng nên tìm hiểu ý nghĩa của việc đứng, đặc biệt là trong phụng vụ. Có thể nói rằng việc đứng có ba ý nghĩa. Thứ nhất, đứng để tỏ lòng trọng kính; chẳng hạn như đang khi chúng ta đang ngồi nói chuyện mà có một người lớn đi vào phòng, thì mọi người đứng lên. Khi chào cờ, chúng ta cũng đứng. Thứ hai, đứng là tư thế sẵn sàng: khi đang đứng thì dễ di chuyển hơn là ngồi hoặc nằm. Thứ ba, đứng cũng là biểu tượng cho danh dự phẩm giá. Người nô lệ thì khúm núm cúi đầu trước ông chủ; trái lại, người tự do thì khẳng khái hiên ngang đứng thẳng. Cuộc khởi nghĩa cách mạng cũng thường được ví với “quật khởi, vùng đứng, nổi dậy”.

Các ý nghĩa vừa nói phần nào cũng được áp dụng trong phụng vụ. Thứ nhất, đứng là thái độ kính trọng. Trong truyền thống Do thái và Kitô giáo, các tín hữu đứng khi nghe công bố Lời Chúa. Chẳng hạn theo sách Nêkhêmia (8,5-7), khi ông Esdras mở sách Lề luật thì mọi người đứng dậy. Đó cũng là ý nghĩa mà chúng ta đứng lên khi nghe công bố bài Phúc âm trong Thánh lễ. Về ý nghĩa thứ hai, đứng như tư thế sẵn sàng, thì ta có thể nhận thấy trong việc cử hành bữa tiệc Vượt qua của người Do thái. Theo sách Xuất hành (12,11): họ ăn đứng, nghĩa là sẵn sàng lên đường.

Ý nghĩa thứ ba của việc đứng là biểu lộ danh dự phẩm giá. Chắc là điều này đâu có thể áp dụng được cho chúng ta khi trình diện trước Thiên Chúa cao sang?

Khi đối diện với Thiên Chúa, con người cảm thấy mình bé nhỏ như hạt cát. Vì thế phản ứng tự nhiên là sấp mình phủ phục. Vì thế thoạt tiên xem ra ý nghĩa thứ ba của việc đứng không thể áp dụng được. Thế nhưng thực tế không phải hoàn toàn như vậy. Người Do thái đứng khi cầu nguyện. Tập tục này vẫn còn duy trì vào thời Tân ước. Chẳng hạn như trong Phúc âm theo Marcô (11,25), Chúa Giêsu nói rằng: “Khi anh em đứng cầu nguyện, nếu anh em có chuyện bất bình với ai thì hãy tha thứ cho họ”. Và trong dụ ngôn về hai người lên đền thờ cầu nguyện được ghi lại ở chương 18 sách Phúc âm theo Luca, Chúa Giêsu kể lại rằng người Pharisiêu đứng thẳng nguyện rằng “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vv”; và người thâu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, vừa đấm ngực vừa thưa rằng “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Như vậy, ta thấy cả người Biệt phái lẫn người thâu thuế đều đứng khi cầu nguyện; sự khác biệt là ở chỗ tâm tình. Việc đứng khi cầu nguyện vẫn còn được duy trì trong phụng vụ Kitô giáo, cụ thể là linh mục đứng suốt trong phần phụng vụ Thánh Thể, khi đọc các lời nguyện cũng như khi đọc kinh Tạ ơn (tức là Kinh nguyện Thánh Thể). Tuy nhiên, nói thế vẫn chưa đủ để nêu bật ý nghĩa thứ ba của việc đứng. Đối với người Kitô hữu, việc đứng khi cầu nguyện còn mang thêm một ý nghĩa mới, so sánh với đạo Do thái, đó là nó biểu lộ cuộc Phục sinh của Đức Kitô, biến cố giải thoát chúng ta ra khỏi vòng tội lỗi.

Đó là chúng ta tán giải theo khoa nhân văn hiện đại, hay là dựa theo Kinh thánh vậy?

Nói theo Kinh thánh đấy chứ! Thí dụ trong thư gửi các tín hữu Galát (5,1), thánh Phaolô viết: “Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta. Vậy anh em hãy đứng vững, đừng mang lấy ách nô lệ một lần nữa”. Trong thư gửi Êphêsô (5,14), thánh Phaolô cũng trưng dẫn một thánh thi: “Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ. Từ chốn tử vong, trỗi dậy đi nào”.

Đó là nói đến sự đứng lên theo nghĩa bóng, chứ đâu phải là đứng khi cầu nguyện?

Thánh Phaolô chưa nói rõ ràng như vậy, nhưng khi sang thời các giáo phụ, thì ta thấy nhiều chứng tích rõ ràng, chắc hẳn còn ảnh hưởng đến ngày nay. Theo ông Tertullianô, (De Oratione, 23) các tín hữu đứng vào các ngày Chúa nhật và Lễ Phục sinh như để biểu lộ niềm vui của sự phục sinh. Hơn thế nữa, ông còn cấm các tín hữu không được quỳ trong mùa Phục sinh (De corona militis 3). Ông Tertullianô sống tại Bắc Phi vào đầu thế kỷ III. Thánh Hiêrônimô cũng tán đồng với truyền thống này: “Mùa Phục sinh là thời kỳ hân hoan và khải hoàn. Vì thế cấm ăn chay và cầu nguyện” (Epist. ad Ephes., Prol.). Cũng nên biết là hiện nay, không những chúng ta đứng khi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên đàng trong mùa Phục sinh, nhưng chúng ta cũng đứng khi đọc kinh Truyền tin các ngày Chúa nhật, bởi vì ngày Chúa nhật tưởng niệm Chúa Phục sinh. Nên biết là công đồng Nixêa (canon 20) cấm quỳ gối trong Thánh lễ ngày Chúa nhật và trong mùa Phục sinh, bởi vì sự quỳ gối mang tính cách thống hối đền tội, không thích hợp với hoàn cảnh. Dù sao, ngoài sự biểu lộ niềm hân hoan Phục sinh, các giáo phụ còn gán cho việc đứng khi cầu nguyện một ý nghĩa nữa, đó là chờ đón Chúa Quang Lâm. Có lẽ tư tưởng này dựa theo Sách Khải huyền (7,9) khi thánh Gioan mô tả một đoàn người đông đảo thuộc mọi dân mọi nước đứng trước ngai, tung hô Chúa Kitô.

Nói như vậy thì trong mùa Phục sinh, ta phải đứng để cầu nguyện chứ không được phép quỳ hay sao?

Như đã nói trên đây, trong Thánh lễ, linh mục đứng quanh năm ngày tháng, chứ không riêng gì trong mùa Phục sinh. Vào thời cổ, người Kitô hữu có thói quen đứng khi đọc kinh, như ta thấy nhiều bức tranh trong các hang toại đạo. Tuy nhiên, đó là nói khi cầu nguyện chung, chứ khi cầu nguyện tư thì không ai cấm ta quỳ gối cả. Chính ông Tertullianô, một đàng thì cấm quỳ gối trong mùa Phục sinh, nhưng đồng thời ông cũng nói rằng lúc nào cầu nguyện thì cũng phải quỳ gối (De oratione 23). Thực ra, không có gì mâu thuẫn hết. Khi đọc kinh chung trong Mùa Phục sinh, thì ông yêu cầu các tín hữu đứng để bày tỏ niềm hân hoan, chứ thường thì nên quỳ gối lúc cầu nguyện. Ta đọc thấy nhiều đoạn văn Kinh thánh nói đến việc quỳ gối cầu nguyện như tư thế khiêm tốn, khẩn nài hoặc thờ lạy Chúa cao cả. Chẳng hạn như thánh vịnh 95 mở đầu Kinh sáng mỗi ngày: “Hãy vào đây, ta cúi mình phủ phục, quỳ trước tôn nhan Chúa là Đấng dựng nên ta”. Thánh Phaolô, trong thư gửi Êphêso (3,14), viết rằng: “Tôi quỳ gối trước mặt Chúa Cha là nguồn gốc mọi tình phụ tử”. Nhất là chúng ta đừng nên quên Chúa Giêsu đã quỳ gối cầu nguyện trong vườn Cây Dầu. Các nhà chú giải đã nêu ra một nhận xét khá lý thú, đó là thánh Luca (22,41) thì viết rằng Chúa Giêsu quỳ gối, còn thánh Matthêu (26,39) lại nói Chúa Giêsu sấp mặt xuống đất. Sự thực thì như thế này. Độc giả của thánh Matthêu là người Do thái, và thái độ phủ phục xuống đất khi cầu nguyện là chuyện thường tình. Trái lại, độc giả của thánh Luca là người Hy-lạp, họ chỉ biết quỳ chứ không biết phủ phục; vì thế mà Luca đã sửa lại lối hành văn. Thánh Luca cũng còn mô tả ông Stêphanô quỳ gối cầu nguyện (chương 7,60) hoặc thánh Phaolô quỳ gối cầu nguyện tại Milêtô (chương 20,26). Trong phụng vụ Rôma hiện nay, quỳ gối diễn tả cách riêng sự thống hối và sự thờ lạy. Vì thế không lạ gì mà khi thờ lạy Mình Thánh Chúa, người ta quỳ gối. Trước đây, việc quỳ gối mang tính cách thống hối. Vì thế các hối nhân phải quỳ gối trong suốt buổi cử hành phụng vụ. Và việc ngăn cấm quỳ gối trong mùa Phục sinh nói trên đây cũng vì lý do đó.

Quỳ gối với bái gối có gì khác nhau không?

Có người coi sự bái gối như một hình thức giản lược của sự quỳ gối, nghĩa là; thay vì quỳ hai gối thì ta quỳ một gối. Thế nhưng, có người giải thích nguồn gốc cách khác: sự bái gối bắt nguồn từ hình thức cung kính dành cho các vua chúa, hoặc đồ vật thánh. Dù giải thích thế nào đi nữa, thì trong khi mà Giáo hội tiên khởi chấp nhận dễ dàng sự quỳ gối khi cầu nguyện, nhưng lại ngăn cấm việc bái gối. Theo vài sử gia, có lẽ tại vì việc bái gối có liên quan đến tục lệ thờ lạy hoàng đế trong xã hội Rôma; nhưng cũng có thể bởi vì nhớ đến cử chỉ nhạo báng của quân lính đối với Chúa Giêsu trong hồi tử nạn. Thánh Matthêu (27,19) cũng như thánh Marcô (15,18) đều thuật lại rằng quân lính khoác cho Người một tấm vải điều, kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Người, rồi bái gối và nói: “Vạn tuế đức vua dân Do thái”. Tuy nhiên, dần dần tục lệ này cũng được chấp nhận trong phụng vụ, được coi như một cử chỉ thờ lạy vắn tắt. Từ thế kỷ IV, các tín hữu bái gối thờ lạy thánh giá; và công đồng Nixêa II (năm 787) cho phép bái gối trước ảnh tượng thánh. Ngày nay, trong thánh lễ, linh mục bái gối khi đến trước bàn thờ có đặt Mình Thánh Chúa, và bái lạy sau khi dâng Mình và Máu Thánh Chúa.

Nhưng mà ở Việt Nam, thay vì bái gối thì cúi mình. Phải chăng, đây là một tục lệ của riêng dân tộc mình?

Không phải chỉ tại Việt Nam mới có tục cúi mình. Chúng ta thấy người Hoa và Nhật mỗi khi chào nhau đều cúi mình. Hơn thế nữa, việc cúi mình đã được nói tới trong Kinh thánh Cựu ước. Một cách tiêu cực, người tín hữu không được bái cúi trước các thần linh (sách Xuất hành 23,24). Một cách tích cực, thánh vịnh 95 mời gọi muôn dân hãy đến cúi mình trước tôn nhan Chúa là Đấng dựng nên ta. Việc cúi mình đã được sử dụng từ lâu trong phụng vụ La-tinh, đặc biệt là tại các đan viện và tu viện. Ngày nay, bên Âu Mỹ nhiều người cũng cúi mình thay vì bái gối khi ra vào thánh đường.

Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP.

Các Bài Viết Khác: